🪆 Văn Học Chữ Hán Và Chữ Nôm

Việc học Hán văn không chỉ giúp cho việc học tiếng Việt và văn hóa Việt (trong đó có Phật học) mà còn là việc làm trong ý thức là bảo vệ văn hóa dân tộc. Ông Cha ta đã sáng tạo ra phương pháp đặc thù riêng để dễ học, dễ nhớ chữ Hán, đó là "Chiết Tự". Vì Tình hình văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm dưới thời Trần như thế nào? A. Văn học chữ Hán suy tàn, văn học chữ Nôm phát triển mạnh mẽ. B. Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều phát triển mạnh mẽ. Bộ sách cung cấp những tri thức về ngôn ngữ văn tự Hán Nôm, sự biến thiên của chữ Nôm qua lịch sử, bản sắc Việt Nam trong các văn bản Hán cổ của người Việt, Elib.thuvienbinhduong.org.vn 5 phút trước 765 Like Học Chữ Nôm (Tái Bản Có Bổ Sung) tải về miễn phí cuốn sách Học Chữ Nôm (Tái Bản Có Bổ Sung) tải xuống miễn phí trong pdf Cổ Hán Văn 古漢文. Tháng 6 năm 1912 nước Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản bộ sách Công Hòa Quốc Giáo Khoa Thư - Tân Quốc Văn 共和國教科書•新國文 (gọi tắt là Tân Quốc Văn) để làm tài liệu dạy ở các lớp tiểu học. Bộ sách này gồm 8 quyển dạy chữ Hán từ đầu, rất Trong đó, chữ người Việt vay mượn của Trung Quốc để dùng cho các văn bản được gọi là "chữ Nho" (chữ Hán cổ). Tuy vậy, ông cha ta vẫn sáng tạo và học chữ nho theo những nét riêng trong ngôn ngữ chứ không hoàn toàn sử dụng phát âm giống Trung Quốc. Chu Văn An để lại hai tập thơ là Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều Ẩn thi tập bằng chữ Hán, một sách bàn về bộ Tứ thư là Tứ thư thuyết ước. Sau khi Chu Văn An mất, các học trò trước đây của ông đã cùng nhau lập bàn thờ ở ngôi trường cũ Huỳnh Cung. Bên Chúng ta có thể nhập một câu bằng văn bản Hán hoặc phiên âm để tra. Lúc tra trường đoản cú theo chữ nôm sẽ hiển thị thông tin hình thái chữ. 2. Trường đoản cú điển Hán Việt Thiều Chửu hannom.huecit Truy cập trên đây Website này được xây dừng và soạn từ cuốn từ bỏ điển Hán-Việt của tác giả Thiều Chửu xuất bạn dạng năm 1942. Mọi người đều biết, văn học Việt Nam hình thành đầu tiên bằng chữ Hán, một ngôn ngữ không phải của người Việt. Giai đoạn hai mơí xuất hiện văn Nôm với chữ Nôm, mãi đến cuối thế kỉ XIX mới hình thành văn quốc ngữ hiện đại nhờ có chữ quốc ngữ. Năm 2008, dự án nghiên cứu "Cổ tích chữ Hán của Việt Nam và giao lưu văn học Trung - Việt từ thế kỷ 16-20" của Lưu Ngọc Quận nhận được tài trợ từ chương trình dành cho thanh niên của Quỹ Khoa học xã hội quốc gia Trung Quốc, cô bắt đầu khảo đính và 2mRrsn. Chữ Nôm là loại văn tự được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, được sử dụng nhiều từ thế kỉ X đến XX. Đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam được viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là gì? Cả hai từ “chữ” và “Nôm” trong “chữ Nôm” đều là các từ Hán Việt cổ. Trong đó từ “chữ” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “tự” 字. Còn từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “nam” 南. Như vậy, ý tên gọi chữ Nôm là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam, tức là người Việt. Vậy thì chữ Nôm là loại chữ gì? Là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán. Nó bao gồm các từ Hán Việt và một hệ thống các từ vựng khác được tạo ra dựa vào việc vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, giá tả, hội ý của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết. Cũng như việc biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. – Ví dụ 1 Chữ bán 半 trong chữ Hán có âm Hán Việt là bán nghĩa là một nửa, nhưng chữ Nôm mượn âm và hiểu theo nghĩa là bán trong mua bán. – Ví dụ 2 Có những chữ Nôm lại mượn nghĩa của hai chữ Hán để tạo ra âm Nôm như từ mệt được ghép bởi chữ 亡 vong nghĩa là mất + chữ 力 lực nghĩa là sức, tức là mất sức nên mệt. – Ví dụ 3 Chữ trời được ghép bởi chữ thiên 天 và thượng 上 thượn, thiên ở trên là trời. Chữ Hán Chữ Hán hay còn gọi là Hán tự là chữ Trung Quốc. Trong chữ Hán bao gồm có 2 loại Chữ Hán cổ phồn thể và chữ Hán hiện đại chữ giản thể. Đây là một dạng chữ viết biểu ý của Trung Quốc sau đó đã du nhập vào các nước lân cận như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Từ đó tạo nên vùng văn hóa chữ Hán, tại các nước này chữ Hán được vay mượn để tạo nên ngôn ngữ mới cho mỗi nước. Trong các văn bản ở Việt Nam, chữ người Việt dùng được gọi là chữ Nho, tức là chữ Hán cổ. Tuy nhiên, người Việt không phát âm chữ Hán như người Trung Quốc bằng cách dùng Pinyin để đọc. Mà người Việt đọc bằng âm Hán Việt, đây là một sáng tạo mới trong việc củng cố phát âm chữ Hán của người Việt. Chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ là hệ chữ viết chính thức trên thực tế de facto hiện nay của tiếng Việt. Bộ chữ Quốc ngữ sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp. Tên gọi “chữ quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ Tây quốc ngữ. Về sau từ Tây bị lược bỏ đi để chỉ còn là chữ quốc ngữ. “Quốc ngữ” nghĩa mặt chữ là ngôn ngữ quốc gia, ở Việt Nam nếu không có từ bổ nghĩa kèm theo cho thấy từ quốc ngữ được dùng để một ngôn ngữ nào khác thì quốc ngữ mặc định là chỉ tiếng Việt. Văn học chữ Nôm và các tác phẩm nổi tiếng Việt Nam Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán khoảng cuối thế kỉ XIII, tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại. Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật. Còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ lục bát, hát nói viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc, hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên. Truyện Kiều bằng chữ Nôm Truyện Kiều của Nguyễn Du Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều Tống Trân Cúc Hoa Phạm Công Cúc Hoa Sau phút chia li – Đoàn Thị Điểm Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu Đập đá ở Côn Lôn – Phan Châu Trinh Muốn làm thằng Cuội – Tản Đà Hai chữ nước nhà – Trần Tuấn Khải Trên đây là một số thông tin khái quát về chữ Nôm. Bác Nhã hy vọng đã cung cấp cho bạn những điều còn băn khoăn. Đừng quên cập nhật website để đọc các bài viết hay nhé! Xem thêm Tuyển tập 1 số file luyện viết chữ Hán miễn phí Những kỹ năng giao tiếp tiếng Trung khi gặp khách hàng Ngoài văn hoá dân gian truyền miệng còn có dòng văn học chữ viết, lúc đầu là chữ Hán, sau chữ Nôm rồi đến chữ Quốc ngữ như ngày nay. Dòng văn học này trải qua nhiều thời kì. Những văn bản sớm nhất hiện tìm thấy có từ thế kỉ thứ X, tạm chia làm hai giai đoạn Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX Từ đầu thế kỉ XX đến này. Bạn đang xem Các tác phẩm văn học chữ hán Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Trong giai đoạn này, văn học thành văn được viết bằng hai thứ chữ chữ Hán và chữ Nôm. Mặc dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam không bị đồng hoá mà dần dần hình thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Chữ Nôm xuất hiện từ rất sớm nhưng từ thế kỉ XVI trở đi văn học chữ Nôm mới thịnh hành và đến thế kỉ XVIII thì văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển về ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm ngày càng phát triển. Văn học chữ viết hình thành và phát triển Trong nhiều thế kỉ, văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ yếu trừ một vài trường hợp như triều Hồ Quý Ly và Quang Trung coi trọng chữ Nôm, tuy sử dụng chữ Hán nhưng các tác phẩm văn học ấy vẫn thấm đượm tính cách và tâm hồn Việt Nam như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, những bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân nhà Trần của Phạm Ngũ. Lão, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, vv. Tiếp đến là những bộ sử dược viết với một ý thức dân tộc mạnh mẽ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, w. Thế kỉ XV, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Nguyễn Trãi là người nêu cao tiếng Việt và vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Tập thơ Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi trong thời kì này là một trong những tập thơ Nôm xưa nhất có giá trị đến ngày nay. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ chiếm ưu thế hoàn toàn trên văn đàn. Những nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu ra đời Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, w, Từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các tác phẩm văn học bằng chữ Quổe ngữ dần dần xuất hiện. Nền văn học Việt Nam hiện nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu cả nền văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp, đã đưa nền văn học Việt Nam phong phú hơn và đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam dần dần đã tách khỏi phong cách cổ điển với những điển tích nặng nề, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ hàng ngày hơn. Năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam ra đời Tố Tàm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào thơ mới được coi là “một cuộc cách mạng” trong thơ ca, những quy tắc gò bó, lối diễn đạt ước lệ, công thức bị phá bỏ, cảm xúc được diễn tả tự nhiên, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, w. Về Văn học lãng mạn nổi lên có nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam và một số nhà văn trẻ, w. Dòng văn học này tuy có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn phải kể đến dòng Văn học hiện thực phê phán. Các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thăm đượm tinh thần nhẫn dạo. Trào lưu này đã cho ra dời những tác phẩrn thật sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước dường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tẩt Tố, Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bi vò của Nguyễn Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, w. Cùng với hai trào lưu trên còn có trào lưu Văn học cách mạng nhưng không được lưu hành hợp pháp tuy có lúc được lưu hành hợp pháp. Trào lưu văn học này gồm những thơ văn của các chiến sĩ cách mạng ở trong tù và những tác phẩm được xuất bản trên báo chí nước ngoài. Những tác giả tiêu biểu cho trào lưu này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ, vv. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nền Văn học hiện đại được phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm ra đời trong thời kì này như những mốc son đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Các tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tầm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, w. là thành quả của nền văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài 21 năm, nhiều tác phấm văn học nổi tiếng đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như Hòn đất của Anh Đức, Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Trên đất Quảng, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi. Và các tác phẩm thơ Quê hương của Giang Nam, Dáng dứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca Chim Chơ-rao của Thu Bồn, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, w. Hiện nay các nhà văn, nhà thơ đang có gắng đưa văn học Việt Nam sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam đi lên trong hoà bình và ổn định. Nguồn Chữ Nôm là một trong ba loại hình chữ viết của nước ta. Chữ Nôm có bề dày lịch sử và phản ánh một giai đoạn văn hóa đậm bản sắc dân tộc. Cùng Thanhmaihsk tìm hiểu về chữ Nôm cũng như quá trình phát triển của chữ Nôm suốt chiều dài lịch sử văn hóa nhé! Chữ Nôm là gì? Từ khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới. Một phần gợi âm, một phần gợi ý, về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Vậy có bao nhiêu chữ Nôm? Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng chữ Nôm “Bảng tra chữ Nôm” xuất bản năm 1976 cho biết có chữ. “Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng 2015 có chữ Nôm gồm gần chữ tự tạo, ghi âm tiết tiếng Việt. Vì sao con số thống kê lại không đồng nhất? Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ. Chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều âm tiếng Việt đã dùng. Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học biết chữ Nho mới học được chữ Nôm, khó phổ cập. Các điểm chính trong quá trình phát triển chữ Nôm Các giai đoạn Sự phát triển Ví dụ Giai đoạn hình thành và phát triển Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ mượn âm Hán để chép tiếng Quốc âm. Phép đó gọi là chữ “giả tá” 假借. Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là “hài thanh” hoặc “hình thanh” 形聲 để cấu tạo chữ mới. từ 别 âm Hán Việt là biệt, nghĩa phân biệt, ly biệt nhưng được dùng để ghi âm từ biết. Trước thế kỷ 15 Người xưa đã bắt đầu sử dụng chữ Nôm để ghi chép lịch sử, văn thơ Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông “Cư trần lạc đạo phú” 居塵樂道賦 và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” 得趣林泉成道歌 Thế kỷ 15–17 Chữ Nôm “phồn thịnh”, phần lớn thi văn lưu truyền bằng chữ Nôm Một số là trước tác cảm hứng riêng như Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập Lê Thánh Tông và hội Tao đàn Nhị thập bát Tú hay Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục Thế kỷ 18–19 Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 14 năm, từ 1788 đến 1802. Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca như hát nói, thơ hàn luật, song thất lục bát, lúc bát. Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Trong những văn bản hành chính thường nhật như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng như tên đất, tên làng, tên người, nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt. Thơ Hàn luật của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều Nguyễn Du và Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu Thời kì suy giảm Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút. Chữ Quốc ngữ được chính quyền thuộc địa bảo hộ qua các nghị định được người Pháp ban ra với mục đich xóa bỏ chữ Hán và chữ Nôm Tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dạy tiếng Trung Quốc là ngoại ngữ cho học sinh phổ thông cấp 2 trong những năm 1957-1959. Khi đất nước thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán và chữ Nôm. Hiện tại Chữ Nôm và chữ Hán hiện nay không được giảng dạy đại trà trong hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam, tuy nhiên nó vẫn được giảng dạy và nghiên cứu trong các chuyên ngành về Hán-Nôm tại bậc đại học. các nhà ngôn ngữ học về Hán Nôm đã và đang cố gắng chuẩn hoá chữ Nôm toàn diện hơn về mặt chữ, cách viết và âm đọc, đồng thời nỗ lực đưa chữ Nôm được mã hoá lên bộ mã Unicode. Đếnn nay đã có gần chữ Nôm Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy. 1. Mượn cả âm đọc âm Hán Việt và nghĩa của chữ Hán Âm Hán Việt có 3 loại là Âm Hán Việt tiêu chuẩn bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ “ông” 翁, “bà” 婆 Âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ “mùa” 務 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “vụ”, Âm Hán Việt Việt hoá là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ “ghế” 几 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”. Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm. 2. Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn Ví dụ Chữ 沒 – một có nghĩa là chìm được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình” Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn Ví dụ Chữ 這 – gió mượn âm “giá”, Đọc giống như âm Hán Việt cổ Ví dụ Chữ 膠 – keo “keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao” được dùng để ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt” 3. Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa Đây là chữ dùng nghĩa chữ Hán, không dùng âm Ví dụ Chữ 能 – năng có nghĩa là có tài, có năng lực được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”. 4. Chữ tự tạo – Chữ hợp thể Đây là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép hoặc nghĩa phù bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Một số ví dụ về chữ ghép 蹎 – chân “chân” trong “chân tay” chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là “chân” được dùng làm nghĩa phù biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Chữ “chân” 真 “chân” trong “chân thành” đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép. Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để báo cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ ? – ấy lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” mà cần đọc chệch đi. 5. Mượn âm của chữ Nôm có sẵn Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm; nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa, khác âm với từ được mượn. Ví dụ Chữ ? – chín “chín” trong “chín người mười ý” được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu chín”. Chữ ? – đá ? “đá” trong “hòn đá” được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của nước Việt Nam. Ghi lại được tiếng nói, chữ viết của dân ta. Vậy nên dù chữ Nôm khó học nhưng vẫn được sử dụng rộng rãi.

văn học chữ hán và chữ nôm